Đã có một thời, người dân ta phân biệt “Ngặc Bươi” 54 và 75!!!
tienducchauson
29/10/2024
Diễn Đàn Bạn Đọc
339 Views
Nhắc lại một thời quá vãng, nghe chuyện xưa mà thấy buồn. Nhưng cũng cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về cuộc đời là, “Cười người chớ có cười lâu, cười người hôm trước hôm sau người cười”.
Lần giở lại trang sử, một thời sau 1975… (Hình ảnh minh họa)
Ngày đó, khi miền Nam vừa giải phóng xong, bầu trời u ám mây mù của thời cuộc đã đành, thì cuộc đời lại càng nhuộm màu đen tối tương lai trước mặt, ngỡ như ngày tận thế đã đến.
Trong khi người miền Nam đang xào xáo tâm tư trăm mối tơ vò, thì làn sóng ăn theo của người dân miền Bắc hí ha hí hửng, tràn vào miền Nam với tâm trạng đầy tự hào và kiêu hãnh khi đánh thắng miền Nam.
Thập niên 80, 90 thiên niên kỷ trước, chính sách nhà nước khuyến khích và mở cửa để di dân vào miền Nam, đã tạo nên một làn sóng di dân tấp nập chẳng khác chi hồi 1954.
Tây nguyên và đặc biệt là Buôn Ma Thuột là miền đất rộng lớn và màu mỡ, dân cư còn thưa thớt, nên người dân quê ta chọn các làng di cư trước 54: Trung Hòa, Hà Lan, Đức Minh, Châu Sơn… làm đất lành chim đậu. Nhưng phải nói, Trung Hòa là “miền đất hứa”, được dân nhập cư “xin chọn nơi này làm quê hương, dẫu cho khó khăn”. Cuộc sống chen lấn, người khôn của khó, và những chung đụng va vấp là khó tránh khỏi. Phải nói, cuộc đổi đời của người dân nhập cư buổi đầu lập nghiệp là muôn vàn khó khăn. Vốn liếng bán nhà cửa ngoài đó chẳng bao lam chi, chỉ trông nhờ vào “hai bàn tay không bắt giặc” thì tránh sao khỏi gian nan.
Buổi đầu, họ nhờ cậy bà con anh em để mua rẻ, hoặc cho một dằm đất để cắm dùi. Sau đó, vận động anh em đi đốn cây, chặt nứa tre và cắt tranh để dựng nên một mái nhà nương náu. Còn cái ăn, cái mặc thì họ trông nhờ vào sức lao động làm thuê, làm mướn, để liệu cơm gắp mắm cho qua tháng ngày bỉ cực. Phải nói, họ rất chịu thương chịu khó để làm lụng vất vả. Rồi dần dà năm tháng, những nhọc nhằn đã đem lại công quả, để họ tậu được đất vườn, nương rẫy, xây cất nhà cửa khang trang như ngày nay… Cho dẫu họ đã phải trải qua một cuộc bể dâu nhọc nhằn, kể cả phải chịu tiếng đời cực nhục…
Hàng năm, cứ đến mùa hái cà phê, người Bắc lại lũ lượt từ quê nhà vào BMT để tìm công hái cà phê. Thành ra, những người mới nhập cư cũng bị đồng hóa vào loại dân làm thuê, làm mướn thấp kém này. Chém gió tui không có ý bôi bác các người nhập cư đâu, nhưng là ghi nhận lại một thực tại phũ phàng vào những năm tháng đó.
Bỗng đầu vào mùa hái cà phê những năm 95? có người GX nọ khoe: “Công bọn “ngặc” ở bên mình rẻ hơn Châu Sơn nhiều”. Thoạt mới nghe, chẳng ai hiểu được từ “ngặc” là gì? Và hình như hiểu ra điều đó, họ tỏ vẻ khoái chí để giải thích: “Ngặc bươi là người bắc đó mà!”. Ra thế! Sao lại tội nghiệp vậy trời!! Phân cấp ra người 54 và người 75 làm chi cho đau lòng “cò con”!!
Nhưng người nhập cư cũng đừng nên buồn làm chi, ngay cả người Châu Sơn vào thời điểm đó mà họ còn khinh miệt để tặng cho 3 chữ: “dân đồng khơi” là “dân đời không”!! Bởi thập niên 90 với giá cà phê phi mã, đã làm cho kinh tế GX nọ phồn thịnh, có của ăn của để, xây nhà cao cửa rộng, sắm sửa: máy hát, TV, karaoke… cho con cái vượt biên, khiến cho họ tự mãn cũng là đúng thôi.
Thực ra, sự kỳ thị của người dân nhập cư sau 75 vào dân làng Châu Sơn là không đáng kể. Thậm chí, ông An (hề) còn bênh vực người nhập cư khi nghe người người GX nọ chế diễu. Chính ông đã diễu lại: Người GX nọ cũng là Ngặc 54, vì họ giàu có, nên họ được gọi là “Ngặc có”, cớ sao lại làm “Ngặc cười” để diễu cợt “Ngặc bươi”. Quả là một sự châm biếm khá thú vị với cụm từ: “Ngặc có, ngặc cười, ngặc bươi”.
Những năm tháng đó, người dân nhập cư sống mặc cảm tự ti với thân phận bị xem là thấp hèn. Ở Châu Sơn, họ ít đi làm thuê, vì nhu cầu làm thuê ở xứ ta những năm 80,90 là không cao. Vì thế, đàn ông thường đi xây, hoặc đi cưa.
Nói về nghề cưa thì họ là bậc thầy dân ta, vì họ đem cái thế cưa ngồi ở Bắc vào, đỡ tốn công lên mô ở núi đồi, lại đỡ mất sức hơn thế cưa đứng, nên có sức bền, đem lại hiệu suất cao hơn. Còn nhớ các ông Luận, ông Hán, ông Đức… một thời cưa lếu ở núi Chúa (Cư Ebur).
Người đàn bà thường chọn nghề chạy chợ… Phải nói, họ có cái tài chạy chợ rất giỏi. Cũng chạy chợ như người bản địa, nhưng họ có cái miệng ăn nói rất dẻo, lại lụa là nhẹ nhàng, và quan trọng hơn cả là không tiếc công tiếc việc, để ngồi hầu chuyện với chủ nhà cả buổi, cà kê dê ngỗng mãi, chủ nhà không định bán cà, tiêu…nhưng sau thấy nể nang mà bán, thế là họ có hàng để chạy chợ đấy! Bái phục! Bái phục!!
Bước sang những năm 2010, những người dân nhập cư đã có cơ ngơi chẳng còn thua kém người bản địa nữa rồi. Thậm chí, có những người thu nhập cao như gia đình ông Thiện (Lộc) kinh doanh vật liệu xây dựng có đủ loại xe: Benz, múc, ủi… Ông bà Thanh Thuận, buôn bán chợ đêm ăn nên làm ra, xây nhà, xe tải… GX ta, mấy ai có thu nhập được như họ. Ông bà Anh (Hiệp) làm ăn khá khấm, con cái học tới bậc đại học, cao học… Thử hỏi trong GX, có mấy gia đình con cái học đến nơi đến chốn như thế!
Bây giờ nổi lên cửa hàng vật liệu xây dựng của anh chị Minh (Thiện) cũng vào bậc nhất Châu Sơn. Ông bà Lâu mở quán cơm ở ngã tư bùng binh đường Vành đai 10.3 cũng khá lớn và đắt khách… Ông bà Thảo (Tâm) cũng có xe chạy vật liệu xây dựng với: xe Benz, xe múc… Rồi ông bà An (Xứng) có 2 đứa con đi học nước ngoài: Canada & Australia và có xe Taxi chạy khách… Ông bà Đạt cung cấp thịt heo cho cả chợ đầu làng. Ông bà Khánh xay xát cà phê, lúa, bắp… Ông bà Đức, chẳng những làm ăn nên nổi, lại có thầy Dương Thế Thảo đi tu làm linh mục… Ông bà Đông có thầy Lâm xuất ngoại đi tu cũng sắp làm linh mục… Ông bà Mai Sĩ Ánh (Đào), được nhà nước bên Hội Nông nghiệp phong tặng danh hiệu: Nông dân Tiên Tiến về cây trồng Thanh Long.
Ông bà Hiếu có tòa nhà biệt thự nội thất sang trọng và mỹ thuật cũng được xếp vào bậc nhất Châu Sơn…
Và còn nhiều gia đình nhập cư sau 75 cũng làm ăn khá khấm chẳng thua kém người di cư 54…
Tất cả những gia đình đó, đã làm vẻ vang cho những người nhập cư sau 75, mà ngày ấy thường bị gọi là dân “Ngặc bươi”!
Và thời thế đã trả lại những nhục nhằn cho họ bằng phép lợi thế, khi bây giờ nhà cửa của họ chiếm lĩnh ở những mặt đường trọng yếu kinh tế: Đường Giải phóng, đường Vành Đai, đường Phạm Ngũ Lão, đường tỉnh lộ 5…
Chúng ta cảm phục và biểu dương những người con nhập cư sau 75, vì họ đã đi qua một chặng đường đầy gian nan để vươn lên vượt khó, ngỏ hầu hòa nhập vào cộng đồng giáo xứ Châu Sơn làm một. Sự phồn thịnh nơi họ, cũng góp phần làm cho bộ mặt GX Châu Sơn thêm phần vẻ vang, và quá khứ sẽ mãi mãi khép lại hai chữ “Ngặc bươi”.
Chém Gió