Sử thi: Châu Sơn, Đất Nở Hoa Nhân Sinh – Phần I. Lịch sử sang trang, Trời mới đất mới

Nhân 65 năm ngày thành lập trại Châu Sơn, BBT xin đăng đàn trang Sử thi: CHÂU SƠN, ĐẤT NỞ HOA NHÂN SINH của tác giả Di Tĩnh Đắc là một tác phẩm bằng những vần thơ lục bát, ghi nhận chiều dài lịch sử của người Châu Sơn, kể từ ngày lập trại cho đến ngày nay.

Trong tác phẩm, tác giả Di Tĩnh Đắc đã dựa trên những thời kỳ Quản xứ của quý linh mục chính phó xứ, để vẽ nên một bức tranh toàn cảnh đầy biến động, qua những thăng trầm lịch sử của đất nước, nhưng cũng không quên thêu hoa dệt gấm với những câu thơ lục bát, mô tả tổng thể về một miền quê Châu Sơn với: Làm ăn kinh tế mùa màng, đời sống sinh hoạt xã hội, đời sống văn hoá, đời sống tâm linh…

Đắc biệt có những hình ảnh tư liệu quý hiếm về thời lập trại của người Châu Sơn.

Tất cả được thâu tóm vào tác phẩm sử thi này, để vẽ nên một bức tranh đầy sắc mầu thổ cẩm của một miền quê Tây Nguyên đầy nắng gió…

Tác phẩm dài 710 câu thơ lục bát, chia làm 5 phần:

Phần I  : Lịch sử sang trang, Trời mới đất mới

Phần II : Miền quê mới, Một thuở yên vui

Phần III: Quê hương ơi! Trải qua một cuộc bể dâu

Phần IV: Châu Sơn, Một miền quê lớn dậy

Phần V : Một miền quê, Đất nở hoa nhân sinh

SỬ THI,

CHÂU SƠN, ĐẤT NỞ HOA NHÂN SINH

PHẦN I:  Lịch sử sang trang, Trời mới đất mới

Dòng đời nước chảy mây trôi

Bể dâu vinh nhục khóc cười vần xoay

Gẫm suy muôn sự tại ai?

Nhân sinh một cõi kiếp người đa đoan

***

Nước Nam chinh chiến bao lần

Giặc Tây đô hộ ngót gần bách niên

Ngờ đâu Cách Mạng vùng lên

Toàn dân kháng chiến Điện Biên lẫy lừng

Mồ chôn giặc Pháp muôn trùng

Việt Minh lên nắm chính quyền trong tay

Ruộng đồng cải cách làm ngay

Đảng toan độc đoán ra tay bạo hành

Đem ra đấu tố dân lành

Nghĩa tình tan tác xóm làng điêu linh

Kiếp người dâu bể cùng đinh

Nhà tan cửa nát gia đình tan hoang

Gặp khi hội nghị hiệp thương (1954)

Geneve hiệp định đôi đường phân ly

***

Triệu người miền Bắc ra đi

Vào Nam tìm chốn đổi đời nương thân

Sông La lịch sử sang trang

Kẻ Tùng, Yên Phú, Đông Tràng, Thọ Ninh

Cùng theo dòng chảy ra Vinh

Ba Lan, tầu Mỹ hành trình vào Nam

Ra đi lòng những mênh mang

Quê cha đất tổ muôn phần luyến lưu

Tre già rủ bóng chiều thu

Người đi kẻ ở lệ sầu chia ly

Ngậm ngùi đành đoạn chia phôi

Câu hò ví dặm buông lời nhắn đưa

Đừng quên quê cũ làng xưa

Nhớ về Hà Tĩnh quê nhà người ơi

***

Một chiều bến cảng đổi đời

Xuân Trường lều bạt tạm thời dừng chân

Bơ vơ giữa chốn Sài Thành

Phồn hoa đô thị vẫn đang ngẩn ngơ

Đường đời còn lắm nỗi lo

Tháng ngày trôi nổi đợi chờ định cư

Cuộc đời như lá mùa thu

Vèo trôi gió thoảng về đâu phận người

Ngược ra Mương Mán tạm thời

Ruộng đồng cằn cỗi đông người nương thân

Đang khi lòng những phân vân

Có người mách bảo lên miền Cao nguyên

***

Sau đêm bàn tính thiệt hơn

Bàn đi tính lại chỉ còn liều thân

Các ông Hiển, Thận, Cầm, Mân

Bốn người tình nguyện ngược miền Ban Mê

Bước đầu còn lắm nhiêu khê

Thăm dò thực địa tưởng về tay không

Cha Khai giới thiệu lại dòng

Châu Sơn khổ hạnh là dòng Xi Tô

Nhà dòng đồng ý nhường cho

Ruộng đồng nằm giữa quanh co lối vào

Cao nguyên đồi núi hoang sơ

Đàn chim bay tới miền cao đại ngàn

Suối reo lau lách xanh rờn

Thắm màu đất đỏ vẫn còn nguyên sinh

Bốn người khấp khởi trong mình

Quay về Mương Mán báo tin mọi người

Dân làng phấn khởi mừng vui

Họp hành bàn tính chuyển dời lên mau

***

Đợt đầu tháng tám mùa Thu (08.1955)

Nhằm ngày hai sáu định cư chốn này

Đất lành chim đậu sum vầy

Muôn người Nghệ Tĩnh về đây quây quần

Dân làng nối kết tình thân

Mới lên lều trại ngỗn ngang bộn bề

Mọi người hăng hái chẳng nề

Chặt cây đốn gỗ đem về trại trang

Buổi đầu vạn sự khởi nan

Dựng xây giáo xứ đồng tâm chung lòng

Thủ tục lập trại ông Phong

Giấy tờ hành chính lo xong tên làng

Đầu tiên tên gọi Thọ Tràng

Tên làng ghép bởi Đông Tràng Thọ Ninh

Cùng chung một giáo phận Vinh

Chung niềm nắng ấm tâm linh chan hoà

***

Vừa vào cấp phát dư thừa

Lương thực gạo thóc cũng vừa một gian

Cuộc đời no ấm bình an

Định cư ban mới ruộng vườn phân ranh

Các ông Trị, Quảng, Tuệ, Mân

Hai thầy Sâm, Thể đồng tâm cùng làm

Chỉ đường xe ủi thẳng băng

Thổ cư đường sá dọc ngang thẳng hàng

Phân chia giáo họ rõ ràng

Xóm ngoài chiếm cứ đầu làng Thọ Ninh

Nắng mai ngời sáng lung linh

Trải dài vào tận làng mình xóm trong

Nối liền ba họ đồng hương

Đông Tràng, Yên phú, Kẻ Tùng sát nhau

Trong ngoài cách bởi chiếc cầu

Về sau ông Tuệ là cầu gọi tên

Cửa nhà kèo cột dựng lên

Mái tranh vách đất nứa phên tạm thời

Ngô khoai lúa tốt xanh tươi

Được mùa giáo xứ yên vui mọi nhà

Gặp khi mưa nắng thuận hoà

Mọi người hăm hở được đà khai hoang

Nương đồi bờ cõi mở mang

Rẫy Chung, Mă Ngạc, Nhà Vàng lan nhanh

Ruộng bà Lan, (bà) Hạnh tốt xanh

Cơm no áo ấm yên lành giáo dân

Lúc này Tổng thống về thăm (1957)

Ban lời phủ dụ trấn an dân làng

***

Bây giờ đến việc tinh thần

Cha Trương Cao Khẩn trình dâng Giám toà

KonTum Giám Mục những là

Bài sai Linh mục Đăng Khoa về làng (1956)

(GB Nguyễn Đăng Khoa)

Con người mảnh dẻ hiền lành

Nói năng nhỏ nhẹ Quảng Bình tình thân

Bước đầu khởi sự gian nan

Việc đời việc đạo muôn vàn khó khăn

May mà phụ tá cha Bân (1957)

(Phê Rô Nguyễn Văn Bân)

Sau về giúp xứ hai năm gần tròn

Thổ cư định vị vừa xong

Nhà thờ gỗ ván thưng vòng theo sau

Giáo dân kinh nguyện sớm chiều

Nghĩa trang cũng được ưu tư lập thành (1957)

Nhà trường Tiến Đức nghèo nàn

Ban đầu phên nứa mái tranh ba phòng

Sau ra vườn trẻ mái tôn

Cho đàn con trẻ xóm trong học hành

Dựng xây nền móng hoàn thành

Cha Khoa rời khỏi Châu Sơn một chiều

Ngài đi giáo xứ buồn ru

Cha Bân Hiệu trưởng vô tư mặc lòng

Con người bình dị khiêm nhường

Sống đời thánh thiện giữa dòng đời trôi

***

Đầu xuân năm chín (1959) bài sai

Có cha Trí Thức được sai về làng

(GB Nguyễn Trí Thức)

Con người tên gọi xứng danh

Học hành uyên bác soạn thành sách, chương

Diễn ca, Thánh hoá đại cương

Quan tâm giới trẻ tâm hồn, đức tin

Lập đoàn Thánh Thể Nghĩa Binh

Thiếu nhi Chim (non) Trúc (non) phân minh hai đoàn

Bài ca mến Chúa soạn thành

Tập cho giới trẻ xóm làng hát ca

Sáu mươi cha xứ chia xa (1960)

Mọi người tiếc nuối xót xa tiễn ngài

 Di Tĩnh Đắc

Hình Cha Trương Cao Khẩn

Hình ảnh Ban Dịnh Cư các cố ông: Trần Hiển – Lưu Cầm – Trần Duy Thận – Trần Mân – Nguyễn Tuệ – Trần Văn Trị – Nguyễn Văn Lan – Nguyễn Văn Hoa – Đậu Quang Tín – Trần Ngọc Phong.

 

Xin mời các bạn xem tiếp

Phần II : Miền quê mới, Một thuở yên vui

Check Also

20 Năm trời cách biệt – Nguyễn Thị Hường, Thầm lặng với một cõi riêng!!!

Viết tưởng niệm cho thầy và các bạn xong… đến lượt bạn Nguyễn Thị Hường, …

Theo bạn, có nên chấp nhận HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH!!??

Bước vào thiên niên kỷ thứ 3, năm 2000, nhân loại đã phải đối đầu …